Phát triển nhiên liệu sinh học: Cần “bà đỡ” mạnh tay

Thực hiện chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công Thương, sáng nay (9/7) tại Hà Nội, Báo Công Thương cùng phối hợp với Vụ Khoa học Công nghệ – Bộ Công Thương tổ chức lớp tập huấn về phát triển nhiên liệu sinh học (NLSH) bền vững.

Môi trường cần được quan tâm hàng đầu

Quyết định 177/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” với mục tiêu phát triển NLSH, một dạng năng lượng mới, tái tạo được để thay thế một phận nhiên liệu hóa thạch truyền thống, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng (ANNL) đất nước.

Đây cũng là dự án hướng tới môi trường, vì hiện nay, môi trường luôn là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, bởi khí độc thải đã  ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe con người, phát sinh nhiều mầm bệnh nan y, tiêu tốn tiền của, thậm chí “tiền mất tật mang”. Đây cũng là vấn đề gây nhức nhối cho toàn xã hội, nhất là các cấp lãnh đạo, do đó, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đặc biệt quan tâm và đã giao các Bộ, ngành xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật, nhằm tạo hành lang pháp lý để thu hút đầu tư, khuyến khích sản xuất quy mô công nghiệp NLSH.

Cung- cầu chưa gặp nhau

Trên cơ sở đó, lĩnh vực sản xuất NLSH đã thu hút các tập đoàn kinh tế, các DN tư nhân đầu tư xây dựng nhà máy. Tính đến nay, Chính phủ đã phê duyệt cho 6 nhà máy (NM) xây dựng và đã đi vào hoạt động là: NM sản xuất ethanol nhiên liệu (Công ty CP Đồng Xanh) có công suất thiết kế 130 triệu lít/năm, nhưng đến cuối năm 2012 đang tạm dừng vì phải giải quyết công nợ; NM sản xuất ethanol nhiên liệu (Công ty TNHH Tùng Lâm), với công suất thiết kế 70 triệu lít/năm; NM sản xuất bioethanol Đắc Tô – Kon Tum với công suất thiết kế 65 triệu lít/năm; NM sản xuất ethanol sinh học Dung Quất với công suất thiết kế 100 triệu lít/năm; NM sản xuất ethanol nhiên liệu Bình Phước thuộc PVOIL có công suất thiết kế 100 triệu lít/năm.
Hiện các nhà máy đó đều đang trong tình trạng sản xuất cầm chừng; riêng NM sản xuất ethanol (Công ty Đại Việt) có công suất thiết kế 70 triệu lít/năm cũng chỉ chạy khoảng 35% công suất thiết kế.

Ngoài ra, hiện nay đang có 10 NM đang làm thủ tục đầu tư.

Tới năm 2012 một số NM do sản phẩm tiêu thụ chậm, cùng với nguồn tài chính khó khăn đã dẫn tới ngành NLSH rơi vào tình trạng bí “đầu ra” nên chỉ sản xuất cầm chừng. Cùng với đó, hiện nay NM sản xuất Ethanol Phú Thọ thuộc Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV OIL) tại Tam Nông, Phú Thọ đã tạm dừng, khiến cho người dân trồng sắn (vùng nguyên liệu) không bán được, vì thế càng khó khăn hơn.

Các DN đã đầu tư đều đáp ứng chạy 100% công suất, tuy nhiên sản phẩm đầu ra tiêu thụ trong nước chỉ đạt 20% để pha trộn xăng E5 và bán theo hệ thống Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Công ty Sài Gòn Petro; 80% còn lại xuất khẩu cho các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippine ở dạng 99,5% và 96% Ethanol, nhưng do chi phí xuất khẩu tăng cao nên DN gặp rất nhiều khó khăn.

Cần “bà đỡ” mạnh tay

Được biết, tính đến cuối năm 2012, năng lực sản xuất ethanol nhiên liệu của cả nước đạt 535 triệu lít/năm. Khi các NM đi vào hoạt động sẽ đạt công suất thiết kế, do đó, sản lượng ethanol sẽ đủ để phối trộn 8,35 triệu tấn xăng E5 hoặc 4,17 triệu tấn xăng E10, đảm bảo đủ và vượt để cung cấp cho thị trường cả nước bằng xăng E5 từ đầu năm 2013.

Tuy nhiên, việc phát triển mạng lưới phân phối xăng sinh học hiện nay vẫn là thách thức khiến các DN sản xuất ra chưa thể tiêu thụ nhiều sản phẩm nên phải sản xuất cầm chừng.

Theo phản ánh của các DN sản xuất Ethanol, một trong những nguyên nhân gây trở ngại tiêu thụ sản phẩm xăng sinh học là  do thiết bị, cơ sở vật chất cho phân phối xăng E5 chưa được hưởng các chính sách ưu đãi, bởi việc vận chuyển, tiêu thụ xăng sinh học E5 phải có điều kiện riêng so với xăng thông thường.

Ông Nguyễn Phú Cường- Phó Vụ trưởng Vụ KHCN- cho biết: Việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp NLSH theo quyết định 177 của Chính phủ, trong triển khai thực hiện còn nhiều vướng mắc. Để tháo gỡ khó khăn cho DN, Ban chỉ đạo đề án đã lồng ghép nhiệm vụ đào tạo và nội dung của các đề tài nghiên cứu vào dự án sản xuất thử nghiệm.

Theo đó, tính đến cuối năm 2012 đã đào tạo được 23 thạc sĩ, 60 kỹ sư, cử nhân có chuyên ngành phù hợp với phát triển NLSH, cùng với các NM đã chủ động tự đào tạo được nhiều cán bộ kỹ thuật cao, công nhân kỹ thuật vận hành đáp ứng nhu cầu phát triển ngành NLSH.

Đến nay, về cơ bản đã hoàn thành cơ sở pháp lý cho việc tổ chức sản xuất và quản lý NLSH, thông qua việc phê duyệt và ban hành Quy hoạch sản xuất cồn nhiên liệu phục vụ cho ngành sản xuất NLSH đến năm 2020, có xét đến năm 2030; lộ trình áp dụng tỷ lệ phối trộn NLSH với nhiên liệu truyền thống và các hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về xăng E5, E10, cùng với trang thiết bị sử dụng tồn trữ, phân phối tại cửa hàng xăng dầu và phụ trợ, rồi vận chuyển tại kho xăng dầu…

Cần chính sách bảo hộ để phát triển

Đại diện Tập đoàn Dầu khí Việt Nam- cho rằng: PVN là đơn vị tiên phong trong việc đầu tư và đưa sản phẩm xăng sinh học, nhưng do chi phí ban đầu quá lớn và chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ tiêu dùng xăng sinh học nên sản lượng tiêu thụ còn xa vời so với công suất thiết kế ban đầu. Do đó, trong khi chờ lộ trình có hiệu lực thì các NM phải sản xuất cầm chừng, PVN buộc phải xuất khẩu ra nước ngoài với chi phí cao nên gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, để đem lại hiệu quả như mong muốn ban đầu, theo PVN, đơn vị đã đầu tư nhiều nhất- cho rằng, Chính phủ cần có chính sách dài hạn cho DN đầu tư như miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị vật tư tồn trữ, vận chuyển, pha chế, phân phối NLSH trong nước chưa sản xuất được; miễn thuế môi trường đối với phần xăng nền để pha chế xăng E5; giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng E5 đưa vào lưu thông (bao gồm cả phần xăng nền dùng để pha chế xăng E5); hỗ trợ thuế VAT đối với sản phẩm đầu ra cho E100 của các NM NLSH và tăng thuế nhập khẩu đối với sản phẩm xăng E100, nhằm bảo hộ thị trường sản xuất trong nước.

Ngoài ra, Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ phát triển nguồn trồng sắn nguyên liệu cho người dân để tăng năng suất mà không cần mở rộng diện tích vẫn đạt hiệu quả cao, đáp ứng đủ nguyên liệu cho đầu vào sản xuất.

Đặc biệt, cần phải có cơ chế cho việc tuyên truyền, sao cho người dân hiểu đúng về chất lượng sản phẩm và tin dùng. Vì hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chính sách hỗ trợ, khuyến khích thông qua ưu đãi về thuế, phí và hàng loạt các chính sách hỗ trợ khác… Nếu Việt Nam làm được việc đó thì, giá thành NLSH mới có thể cạnh tranh được với xăng dầu truyền thống và thu hút được nhiều DN cùng tham gia, mới đáp ứng được các mục tiêu cơ bản đặt ra tại đề án 177.

Theo PGS.TS. Lê Anh Tuấn- Phó Viện trưởng Viện Cơ khí động lực, Trường Đại học Quốc gia- khẳng định: Các kết quả nghiên cứu về NLSH cho động cơ cho thấy, chúng ta có thể sử dụng được xăng E10 trên động cơ ô tô, xe máy đang lưu hành mà không cần phải điều chỉnh kết cấu, góc đánh lửa sớm, giúp giảm đáng kể phát thải CO và HC vì vật liệu lửa các chi tiết trong hệ thống cung cấp nhiên liệu động cơ nhìn chung tương thích với xăng E10. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý tới các chi tiết bằng đồng, cao su tự nhiên; đồng thời cần làm sạch, hoặc rút ngắn chu kỳ thay thế bảo dưỡng lọc nhiên liệu, thay dầu bôi trơn và nên dùng xăng E10 đều đặn. Trong quá trình vận hành có thể dùng xăng E10 và Ron92 thông thường mà không gây ảnh hưởng tới tính năng của phương tiện. Do đó, sản phẩm xăng sinh học là sản phẩm được đã được các nhà khoa học nghiên cứu, đánh giá phù hợp với môi trường, không gây ảnh hưởng tới phương tiện, thậm chí giảm hiệu ứng nhà kính.

Kim Tuyến